Lịch sử Sakhalin

Lịch sử ban đầu

De Vries (1643) vẽ các mũi đất phía đông của Sakhalin, song không biết rằng ông đang thăm một hòn đảo (bản đồ từ năm 1682).

Sakhalin đã có người sinh sống từ thời đại đồ đá mới. Các đồ dùng để đánh lửa đã được tìm thấy tại Dui và Kusunai với số lượng rất lớn và tương tự những thứ được tìm thấy ở Siberi. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy các rìu đá được đánh bóng tương tự như những hiện vật đã tìm thấy tại châu Âu, đồ gốm nguyên thủy với các họa tiết trang trí, và các vật nặng bằng đá của các lưới đánh cá. Số dân sử dụng công cụ đồ đồng về sau này đã để lại dấu tích trong các bức tường bằng đất và các đống chất thải trong quá trình nấu nướng ở vịnh Aniva.

Trong số các thổ dân tại Sakhalin thì người Ainu sinh sống ở nửa phía nam, người Orok sinh sống ở khu vực giữa, và người Nivkh sống ở nửa phía bắc.[5] Họ được ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa là các bộ lạc Tiên TiHách Triết, sinh sống dựa vào săn bắt cá.

Liên hệ với các triều đại Trung Quốc

Đế quốc Mông Cổ đã tiến hành một số nỗ lực nhằm chinh phục cư dân bản địa Sakhalin từ khoảng năm 1264. Theo Nguyên sử, chính sử của nhà Nguyên, 3000 đại quân đội Mông Cổ đã tiến đánh đảo Khố Hiệt, đánh bại người Cốt Ngôi (骨嵬, Gǔwéi), Sau đó, các trưởng lão Cốt Ngôi đã thực hiện các chuyến viếng thăm để triều cống cho đồn quân sự của nhà Nguyên. Đến năm 1284, người Cốt Ngôi phản lại nhà Nguyên, đến năm 1285 thì nhà Nguyên thiết lập Đông Chinh nguyên soái phủ để tăng cường quản lý vùng hạ du sông Amur và đảo Sakhalin. Đến năm 1308, Cốt Ngôi vương Thiện Nô đã sai người đến thỉnh cầu quy hàng, nhận mỗi năm nộp da và lông hải cẩu, rái cá.[4][6] Người Nivkhngười Orok đầu hàng trước, còn người Ainu chịu khuất phục người Mông Cổ về sau đó.

Vào đầu thời nhà Minh (1368–1644), quan hệ triều cống được tái thiết lập. Năm 1412, nhà Minh chinh phục Khổ Ngột, tại vùng ven biển bắc bộ của đảo thiết lập "Nang Cáp Nhi vệ", tại lưu vực sông Poronay ở trung bộ thiết lập "Ba La hà vệ", tại đông bộ của đảo thiết lập nên "Ngột Liệt Hà vệ", lệ thuộc vào Nô Nhĩ Can đô ti.[6] Sau khi thiết lập các cơ sở của người Hán tại vùng sông Amur, tức giữa thế kỷ XV, người Ainu tại Sakhalin đã thường xuyên đến các tiền đồn do nhà Minh kiểm soát để cống nạp.[6] Dưới triều Minh, người Hán gọi hòn đảo này là Khổ Ngột (tiếng Trung: 苦兀; bính âm: Kǔwù), và sau đó là Khố Hiệt (tiếng Trung: 庫頁; bính âm: Kùyè). Có một số bằng chứng về việc một thái giám triều Minh tên là Diệc Thất Cáp (亦失哈) đã thị sát Sakhalin vào năm 1413 vào một trong các cuộc thám hiểm của ông ở hạ du Amur, ông đã ban tước hiệu của nhà Minh cho một tộc trưởng địa phương và cũng là người đã thiết lập nên Nô Nhĩ Can đô ti vào năm 1411.[7] Theo Thánh vũ ký (tiếng Trung: 聖武記) của Ngụy Nguyên, Hậu Kim đã cử 400 quân đến Sakhalin vào năm 1616 do quan tâm đến việc những người ở miền bắc Nhật Bản có các tiếp xúc với khu vực, song sau đó đã dời đi khi nhận thấy không có đe dọa từ hòn đảo. Sau khi thành lập nhà Thanh, triều đình quy thuộc đảo Sakhalin thuộc quyền quản lý của Ninh Cổ Tháp phó đô thống. Sau năm 1715, triều đình nhà Thanh chuyển quyền quản lý đảo sang Tam Tính phó đô thống. "Dân nhu" sống trên đảo mỗi năm lại đến vùng hạ du sông Amur để cống nạp da chồn cho nhà Thanh thông qua các tiền đồn của triều đình.[6] Đến giữa thế kỷ XVIII, các quan chức nhà Thanh đã ghi vào sổ hộ tịch 56 nhóm họ; trong đó, nhà sử liệu nhà Thanh lưu ý rằng sáu thị tộc và 148 hộ người Ainu và người Nivkh nằm dưới sự bảo trợ hành chính của nhà Thanh tại Sakhalin.[8]

Người châu Âu và Nhật Bản thám hiểm

Sakhalin trên bản đồ năm 1773

Một điểm định cư của người Nhật đã được thiết lập tại Ōtomari ở cực nam của Sakhalin vào năm 1679 trong một nỗ lực nhằm thuộc địa hóa hòn đảo. Những nhà bản đồ học đến từ gia tộc Matsumae đã lập ra một bản đồ của hòn đảo và gọi nó là "Kita-Ezo" (Bắc Ezo, Ezo là tên cũ của các đảo ở phía bắc Honshu). Điều ước Nerchinsk năm 1689 giữa đế quốc Nga và nhà Thanh đã xác định dãy núi Stanovoy làm biên giới giữa hai bên, song đã không đề cập rõ ràng về hòn đảo. Tuy vậy, nhà Thanh vẫn xem hòn đảo là lãnh thổ của mình. Do nhà Thanh không có sự hiện diện quân sự trên đảo nên những người đến từ Nhật Bản đã cố định cư tại các đảo.

Martin Gerritz de Vries là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đã đến thăm Sakhalin, ông đã vẽ bản đồ mũi Patiencemũi Aniva trên bờ biển phía đông của đảo vào năm 1643. Tuy nhiên, vị hạm trưởng người Hà Lan đã không nhận thức được Sakhalin là một hòn đảo, và các bản đồ trong thế kỷ XVII thường thể hiện các điểm trên đảo, cũng như Hokkaido, là các bộ phận của lục địa.

Là một phần trong chương trình vẽ bản đồ toàn quốc Thanh-Pháp, hoàng đế Khang Hi đã phái các linh mục Dòng TênJean-Baptiste Régis, Pierre Jartoux, và Xavier Ehrenbert Fridelli cùng một nhóm người Mãn đến viếng thăm vùng hạ du sông Amur vào năm 1709,[9] và họ đã nghe những người bản địa ở hạ du Amur nói về sự hiện diện của hòn đảo ngoài biển ở gần đó. Các linh mục dòng Tên đã nghe được rằng những người dân trên đảo chăn nuôi tuần lộc giỏi. Họ báo cáo rằng những người ở lục địa sử dụng một số tên để gọi hòn đảo, song Saghalien anga bata, nghĩa là "đảo ở cửa sông đen" là tên phổ biến nhất, trong khi người dân bản địa này hoàn toàn không biết về tên gọi "Huye" (có lẽ là "Khố Hiệt", 庫頁, Kùyè) mà các linh mục nghe thấy ở Bắc Kinh.[10]

La Perouse đã vẽ bản đồ hầu hết bờ biển tây nam của Sakhalin (hay "Tchoka", do họ nghe thấy người dân bản địa gọi như vậy) vào năm 1787

Tuy nhiên, các linh mục dòng Tên đã không có cơ hội để đích thân đến viếng thăm hòn đảo, và các thông tin không đầy đủ về địa lý của những người dân bản địa ở hạ lưu Amur và người Mãn đã từng đến hòn đảo không cho phép họ xác định đây là vùng đất từng đã được de Vries viếng thăm vào năm 1643. Do vậy, nhiều bản đồ trung thế kỷ XVII thể hiện Sakhalin với một hình dạng khá kỳ lạ, trong đó chỉ có một nửa phía bắc của hòn đảo (với mũi Patience), trong khi mũi Aniva được de Vries khám phá và "Mũi Đen" (Mũi Crillon) được xem là phần của đất liền.

Jean-François de La Pérouse đã thám hiểm khu vực đảo Sakhalin vào năm 1787, và đã vẽ hải đồ eo biển Tatar, song ông đã không thể đi qua nút thắt cổ chai ở phía bắc của nó do nghịch gió, từ đó các bản đồ của người châu Âu miêu tả về hòn đảo mới có hình dạng tương tự như các bản đồ hiện nay. La Pérouse đã gặp một vài người dân đảo gần nơi mà ngày nay gọi là eo biển Nevelskoy và họ nói với ông hòn đảo được gọi là "Tchoka" (hoặc ít nhất là gần với âm mà ông phiên dịch bằng tiếng Pháp), và sau đó cái tên này được sử dụng trên một số bản đồ.[11]

Nhà thám hiểm người Nga Adam Johann von Krusenstern đã viếng thăm Sakhalin vào năm 1805, nhưng lại xem nó là một bán đảo.

Các chuyến viếng thăm của các cường quốc châu Âu đã báo động Nhật Bản, nước này đã tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hòn đảo vào năm 1807. Người Nhật Bản nói rằng Mamiya Rinzō là người đã thực sự khám phá ra eo biển Tatar vào năm 1809.

Nga-Nhật kình địch

Những người Nga định cư trên đảo, gần một nhà thờ vào ngày lễ, 1903

Nhật Bản xem Sakhalin là một phần mở rộng của Hokkaidō về mặt địa lý và văn hóa, và lại một lần nữa tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hòn đảo vào năm 1845, cũng như quần đảo Kuril. Tuy nhiên, nhà hàng hải người Nga Gennady Nevelskoy vào năm 1849 đã ghi nhận sự tồn tại và khả năng thông hành của eo biển giữa đảo và lục địa. Bất chấp những tuyên bố chủ quyền của nhà Thanh và Nhật Bản, những người định cư Nga đã hình thành các mỏ than, các cơ sở chính quyền, trường học, nhà tù và các nhà thờ trên đảo. Nhật Bản lại tuyên bố chủ quyền đối với Sakhalin (mà họ gọi là Karafuto) vào năm 1865 và chính quyền nước này đã cho xây dựng một bia để thông báo điều này ở cực bắc của hòn đảo.

Năm 1855, Nga và Nhật Bản đã ký hiệp ước Shimoda, theo đó thì công dân hai nước đều có thể sinh sống ở hòn đảo: người Nga ở phía bắc, và người Nhật ở phía nam, không có ranh giới rõ ràng giữa hai khu vực. Nga cũng đồng ý bỏ các căn cứ quân sự tại Ootomari. Sau Chiến tranh Nha phiến, người Nga đã buộc nhà Thanh phải ký Điều ước Ái Hồn (1858) và Điều ước Bắc Kinh (1860), theo đó thì Đại Thanh để mất về tay người Nga tất cả các lãnh thổ ở phía bắc Hắc Long Giang (Amur) và phía đông sông Ussuri, bao gồm cả Sakhalin. Nga đã thiết lập một katorga tại Sakhalin vào năm 1857, song phần phía nam của đảo vẫn nằm trong tay người Nhật cho đến Hiệp ước Sankt-Peterburg (1875), theo đó thì Nhật Bản nhượng lại Sakhalin cho Nga để đổi lấy quần đảo Kuril.

Phân chia đảo

Đảo Sakhalin với Karafuto được tô đậm

Sau Chiến tranh Nga-Nhật, hai nước đã ký kết Hiệp ước Portsmouth vào năm 1905, theo đó thì phần phía nam của đảo ở phía dưới 50° vĩ Bắc sẽ quay trở lại thuộc chủ quyền của Nhật Bản; Nga giữ lại ba phần năm diện tích của hòn đảo. Trong cuộc can thiệp Siberi, Nhật Bản đã chiếm giữ phần phía bắc của đảo từ năm 1920 đến năm 1925.

Nam Sakhalin được Nhật Bản tổ chức thành thính Karafuto (Karafuto-chō (樺太庁, Karafuto-chō?)), với thủ phủ là Toyohara, tức Yuzhno-Sakhalinsk ngày nay, và có một lượng lớn người nhập cư đến từ Triều Tiên.

Ở phía bắc, người Nga tổ chức vùng thuộc chủ quyền của mình thành tỉnh Sakhalin, với thủ phủ đặt tại Aleksandrovsk-Sakhalinsky.

Chiến tranh thế giới thứ hai

Tháng 8 năm 1945, theo các thỏa thuận trong Hội nghị Yalta, Liên Xô được nắm quyền kiểm soát đối với Sakhalin. Liên Xô đã tấn công phía nam Sakhalin trong Chiến dịch Mãn Châu và bắt đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 1945, tức sau vụ ném bom nguyên tử xuống HiroshimaNagasaki và bốn ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng. Quân đoàn súng trường số 56 bao gồm sư đoàn súng trường 79, lữ đoàn súng trường 2, lữ đoàn súng trường 5 và lữ đoàn bọc thép 214 đã tấn công sư đoàn số 88 của Nhật Bản. Mặc dù Hồng quân đông gấp ba lần quân Nhật, song họ đã không thể tiến lên do sự kháng cự quyết liệt của Nhật Bản.

Cho đến khi lữ đoàn súng trường 113 và tiểu đoàn súng trường thủy quân lục chiến độc lập 365 từ Sovetskaya Gavan đổ bộ lên Tōro (塔路, Tōro?) — một ngôi làng ven bờ biển ở phía tây của Sakhalin — vào ngày 16 tháng 8 thì Liên Xô mới có thể phá vỡ tuyến phòng thủ của Nhật Bản. Sức kháng cự của Nhật Bản ngày một suy yếu sau cuộc đổ bộ này. Giao tranh chủ yếu là các cuộc đụng độ nhỏ và chấm dứt vào ngày 21 tháng 8. Từ ngày 22 tháng 8 đến ngày 23 tháng 8, hầu hết các đơn vị còn lại của Nhật Bản đã tuyên bố tạm ngừng bắn. Liên Xô đã hoàn thành cuộc chinh phục Sakhalin vào ngày 25 tháng 8 năm 1945 khi chiếm đóng thủ phủ Toyohara. Các nguồn của Nhật Bản ước tính số dân thường thiệt mạng trong cuộc xâm lược Sakhalin là 3.500-3.700 người, song không rõ về con số chính xác.[12]

Binh lính Nhật Bản bên mốc biên giới tại 50° vĩ Bắc

Trong tổng số 448.000 cư dân người Nhật sinh sống tại Nam Sakhalin vào năm 1944, một lượng đáng kể đã được sơ tán trong khoảng thời gian cuối của chiến tranh, song vẫn còn lại 300.000 hoặc tương đương ở lại đảo trong vài năm nữa.[13] Trong khi phần lớn người Nhật đã di tản đến Nhật Bản trong giai đoạn 1946–1950, thì hàng chục nghìn người gốc Triều Tiên (và một số vợ chồng người Nhật của họ) vẫn ở lại Liên Xô.[14][15]

Lịch sử gần đây

Ngày 1 tháng 9 năm 1983, Korean Air Flight 007, một máy bay dân sự của Hàn Quốc, đã bay qua Sakhalin và bị Liên Xô bắn hạ ngay phía tây đảo Sakhalin, gần đảo nhỏ Moneron; Liên Xô tuyên bố rằng đó là một máy bay gián điệp. Toàn bộ 269 hành khách và phi hành đoàn đã thiệt mạng, bao gồm cả nghị sĩ Hoa Kỳ Larry McDonald.

Ngày 28 tháng 5 năm 1995, một trận động đất mạnh 7,5 độ Richter đã xảy ra, giết chết 2,000 người tại thị trấn Neftegorsk.[16]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sakhalin http://islands.unep.ch/Tiarea.htm http://books.google.com/?id=8CFiT3qbN5UC&pg=PA428&... http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134... http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134... http://books.google.com/?id=KHUYRM2527sC http://books.google.com/?id=aU5hBMxNgWQC&lpg=PA159... http://books.google.com/?id=jLSxhmCvbVsC&pg=PA258#... http://books.google.com/?id=nzhq85nPrdsC http://www.steam.dial.pipex.com/trains/russia02.ht... http://www.rzd-partner.com/press/2008/07/07/327041...